Quyết định của Nhật Bản nhằm cung cấp trợ cấp ban đầu cho nhóm 87 công ty với tổng trị giá 653 triệu đô la Mỹ để mở rộng sản xuất ở trong nước và ở các nước Đông Nam Á đã làm dấy lên cuộc tranh luận liệu nền kinh tế lớn thứ ba thế giới có đang cố gắng tách dần khỏi Trung Quốc hay không.
Đại dịch coronavirus đã tàn phá các chuỗi cung ứng toàn cầu, với cuộc khủng hoảng nhấn mạnh điều mà nhiều công ty và quốc gia đã biết từ lâu: họ quá phụ thuộc vào Trung Quốc.
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản và Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ hai của Trung Quốc và mặc dù không phải tất cả các doanh nghiệp tham gia vào gói hỗ trợ đầu tiên đều hoạt động tại Trung Quốc, nhưng động thái của chính phủ Nhật Bản đã làm dấy lên lo ngại ở Trung Quốc.
Mặc dù các công ty liên quan được ước tính chỉ chiếm chưa đến 1% tổng vốn đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc và sẽ không có tác động kinh tế ngay lập tức, nhưng nếu xu hướng này tiếp tục, nó có thể làm lung lay nền tảng của mô hình tăng trưởng dài hạn của Trung Quốc và có khả năng làm mất đi các cơ sở công nghiệp của đất nước.
Sử dụng khoản trợ cấp trên, 57 trong số các công ty sẽ mở thêm nhà máy tại Nhật Bản, trong khi 30 công ty còn lại có kế hoạch mở rộng sản xuất ở các nước Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, Myanmar và Thái Lan.
Khoảng 70% các công ty là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với hơn 2/3 tham gia vào lĩnh vực sản xuất đồ y tế.
Theo các quan chức Nhật Bản, danh sách thứ hai bao gồm các công ty sẽ được trợ cấp cũng đang được thành lập, với thành phần tương tự như danh sách thứ nhất.
Một cuộc khảo sát của Teikoku Databank, một nhà nghiên cứu tín dụng hàng đầu của Nhật Bản, cho thấy có 13.685 công ty Nhật Bản tại Trung Quốc vào cuối tháng 5 năm 2019, giảm so với 13.934 trong cuộc khảo sát trước đó được thực hiện vào năm 2016.
Đỉnh điểm là vào năm 2012, có 14.394 công ty Nhật Bản có hoạt động tại Trung Quốc.
Nhưng vướng vào cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, cũng như chịu tác động của coronavirus, các ông lớn ngành máy in Nhật Bản bao gồm Brother, Kyocera và Fuji Xerox đang chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Sharp cũng chuẩn bị chuyển một phần dây chuyền sản xuất máy in đa chức năng của mình từ tỉnh Giang Tô sang Thái Lan, mặc dù những động thái này không liên quan đến các khoản trợ cấp, theo tạp chí Trung Quốc Caijing.
Liu Zelandao, giáo sư kinh tế công nghiệp tại Đại học Nam Kinh ở Giang Tô, cho biết các chính quyền địa phương đang ngày càng lo lắng về sự rời đi của các nhà sản xuất Nhật Bản vì họ sẽ “mất mặt” nếu các doanh nghiệp nước ngoài chọn một đất nước khác.
“Ở Giang Tô, chúng tôi chưa nhận thấy xu hướng rời đi ồ ạt của các công ty Nhật Bản. Chúng tôi hiểu động thái của chính phủ Nhật Bản, đặc biệt là với những gì đã xảy ra kể từ đại dịch Covid-19, ”Liu, người cũng là cố vấn chính phủ cho biết.
“Chính quyền Giang Tô tự tin về cơ sở hạ tầng và hiệu quả của chính phủ, vì vậy họ không lo lắng về việc rời đi. Do đó, cuối cùng, cách duy nhất để chính quyền địa phương giữ chân các doanh nghiệp nước ngoài là giảm chi phí và cung cấp một môi trường đầu tư an toàn cho họ ”.
Tại tỉnh Sơn Đông, nơi có hơn 1.300 nhà sản xuất Nhật Bản đặt trụ sở, chính quyền địa phương đang nỗ lực để thu hút thêm vốn đầu tư của Nhật Bản.
Tỉnh đang đồng tổ chức một sự kiện với các tổ chức xúc tiến thương mại của Trung Quốc và Nhật Bản, kéo dài đến cuối tháng 9, nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực sản xuất thiết bị cao cấp, chăm sóc y tế và ngành y tế với Nhật Bản.
Hideo Kawabuchi, Phó tổng giám đốc Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) tại Bắc Kinh, một tổ chức liên quan đến chính phủ, cho biết, mục đích chính thức của các khoản trợ cấp là nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng của Nhật Bản và làm cho họ linh hoạt hơn thay vì tập trung vào việc rút khỏi Trung Quốc.
Kawabuchi nói thêm, chính sách này không bắt buộc và quyết định di dời các nhà máy khỏi Trung Quốc là tùy thuộc vào từng công ty.
Kawabuchi cho biết: “Các nhà quản lý doanh nghiệp Nhật Bản quyết định đầu tư vào đâu bằng cách xem xét đa dạng hóa để giảm thiểu rủi ro gián đoạn nguồn cung cấp hàng hóa quan trọng và chuỗi cung ứng trong trường hợp khủng hoảng không lường trước được”.
Nhập khẩu các sản phẩm điện tử, máy tính và phụ tùng xe hơi của Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc, nhưng việc sản xuất ở Trung Quốc đã tạm dừng vào đầu năm nay do coronavirus, dẫn đến gián đoạn sản xuất ở Nhật Bản.
Mặc dù mức độ nhập khẩu phụ tùng không lớn, ngành công nghiệp xe hơi có hệ thống sản xuất phức tạp và chuỗi cung ứng tập trung, có nghĩa là bất kỳ sự gián đoạn nào cũng có thể khiến việc sản xuất xe bị đình chỉ.
Tháng trước, những tài liệu thường niên về thương mại của Nhật Bản cũng cho biết các công ty ở vị trí “thượng nguồn” dễ bị ảnh hưởng khi hoạt động sản xuất bị gián đoạn ở Trung Quốc, vì vậy nước này cần xây dựng lại chuỗi cung ứng linh hoạt để chuẩn bị và đối phó với một cuộc khủng hoảng tiềm ẩn khác trong tương lai.
Động thái của chính phủ Nhật Bản diễn ra vào thời điểm quan hệ Mỹ – Trung đang ở mức thấp nhất mọi thời đại.
Vào tháng 4, cùng ngày Nhật Bản công bố kế hoạch trợ cấp, Giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia Nhà Trắng Larry Kudlow cho biết Mỹ nên “trả chi phí di chuyển” cho mọi công ty Mỹ muốn chuyển ra khỏi Trung Quốc.
Đối với một số người, động thái của Nhật Bản được coi là một bước tách rời kinh tế khỏi Trung Quốc và cùng Washington thành lập một mặt trận thống nhất chống lại Bắc Kinh.
Tuy nhiên, Scott Kennedy, chuyên gia về Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington, cho rằng Washington cần hiểu rõ hơn về các hành động của Tokyo và điều chỉnh cách tiếp cận của riêng mình nếu muốn có quan hệ đối tác thực sự với Nhật Bản trong việc quản lý thách thức mà Trung Quốc mang lại.
Kennedy nói: “Thay vì cắt đứt quan hệ, mục tiêu của Tokyo là đa dạng hóa các chuỗi cung ứng, làm cho chúng linh hoạt hơn và ít phụ thuộc hơn vào Trung Quốc, đồng thời khuyến khích sản xuất nhiều hơn trong nước để giải quyết tình trạng kinh tế đang chững lại”.
Trung Quốc đang dần chậm lại trong vài năm qua và dự kiến tăng trưởng chậm hơn nữa trong thập kỷ tới khi nước này vật lộn với quá trình chuyển đổi nhân khẩu học và nợ lớn.
Trong một cuộc khảo sát hồi tháng 4 của JETRO về 424 công ty Nhật Bản có cơ sở ở miền đông Trung Quốc, 86% số người được hỏi cho biết họ không có kế hoạch thay đổi chuỗi cung ứng hoặc chuyển sang các nước khác.
Trong số 361 người được hỏi ở miền nam Trung Quốc, 22,3% các công ty Nhật Bản cho biết họ sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh trong tương lai ở Trung Quốc và 8,6% cho biết họ sẽ thu hẹp quy mô hoạt động ở nước này, trong khi 69,1% cho biết họ đang theo dõi và vị trí của họ là “Chưa chắc chắn”.
“Các công ty Nhật Bản đang theo dõi sát sao mối quan hệ đang thay đổi giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng chiến lược kinh doanh của họ dựa trên nền kinh tế và thị trường của mỗi quốc gia.
VietNews (theo SCMP)